CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1 Tác giả
Honoré de Balzac
(5/1799-8/1850), ông sinh ra trong một gia đình công chức ở thành phố Tours. Balzac sống trong thời kì giằng xé quyết
liệt và lâu dài giữa hai giai cấp cầm đầu xã hội nước Pháp thời ấy: tư sản và
quý tộc. Năm 1814 ông theo cha đi Paris, vừa học luật vừa học thêm các lớp văn
học, triết học ở trường đại học Sorbone. Năm hai mươi tuổi Balzac bắt đầu sáng tác, ông quyết định từ bỏ con đường luật và
theo hẳn con đường văn chương. Năm 1829, Balzac thành công cho ra đời tiểu thuyết
Những người Chouans, đó là kết quả của quá trình vươn lên
trong cuộc sống nghèo khổ và cảm thông sâu sắc với những con người nghèo khổ.
Năm 1842, Balzac tập hợp toàn bộ tác
phẩm của mình lấy tên là Tấn trò đời.
Năm 1850, ông kết hôn với nữ bá tước Hanska, lúc trở về Paris ông ốm nặng và
qua đời ngày 21/8/1850.
Tác
phẩm tiêu biểu: Những người Chouans (1829), Gobseck (1830), Miếng da lừa (1831),
Luy Lămbe (1832), Eugénie Grandet (1833)…
1.2 Tóm tắt tác phẩm Eugénie Grandet của Balzac
Lão
Grandet sống ở thị trấn Xômuya,
ông ta làm nghề đóng thùng, lão lợi dụng cách mạng, dùng mọi chiêu trò đầu cơ
tích trữ mà ngày càng trở nên giàu có nhất vùng. Nhưng lão rất keo kiệt, độc
đoán và tàn nhẫn, lão đày đọa vợ con sống cảnh thiếu thốn và bóc lột người ở là
bà Nanông. Lão có một cô con gái duy
nhất là nàng Eugénie, nàng xinh đẹp
và rất nhân hậu. Hai dòng họ lớn nhất vùng là Gruyso và Đe Graxanh,
ganh đua và xu nịnh Grandet để lão gả
con gái và được kết giao với dòng họ giàu có. Họ Cruysô nắm trọng trách quan trọng
ở vùng như cha sứ, chánh án, quản lí văn khố, còn dòng họ Đê Graxanh thì làm chủ
ngân hàng.
Charles Grandet
con người em ruột của lão Grandet ở
Paris. Bố Charles
là một nhà tư sản giàu có bị vỡ nợ rồi tự tử, sau đó ông ta đã gửi Charles
cho ông em của mình chính là lão Grandet. Eugénie đem lòng yêu say đắm cậu em họ
và có bao nhiêu tiền vàng để dành liền đem tặng cho người yêu làm vốn kinh
doanh. Charles
cảm
động, trao cho nàng cái hộp đầy kỉ niệm của mẹ chàng và những lời thề thốt đầy
hứa hẹn. Charles
hứa
sẽ trở về sau khi lấy lại danh dự cho cha và dòng họ. Lão Grandet biết chuyện thì hành hạ vợ cho đến chết và giam lỏng đứa
con gái của mình. Một thời gian sau Charles
trở nên giàu có, hắn quên hết tình cảm ngày xưa, hắn trả lại tiền cho Eugénie xem như là đổi lấy bảy năm chờ
đợi của nàng.
Cuối
cùng lão Grandet chết bên cạnh đống
vàng nhưng lão ta vẫn không quên dặn con gái gìn giữ tài sản của mình để khi chết
đi thì báo lại với lão ở thế giới bên kia.
CHƯƠNG 2: GIỚI THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN VÀ SỰ PHẢN ÁNH
CỦA NÓ TRONG VĂN HỌC
2.1
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỉ XIX
Người
đầu tiên vận dụng thuật ngữ Chủ ngữ hiện
thực và văn học và hội họa là Jules Francois Husson, bút danh Champfleury
(1821-1889). Cùng với Louis Edmond Duranty (1833-1880) cũng là một nhà tiểu
thuyết và phê bình nghệ thuật, Champfleury lập ra tạp chí Chủ nghĩa hiện thực, tồn tại được một thời gian ngắn. Trong tiểu luận
Chủ nghĩa hiện thực (1857),
Champfleury cố gắng đem lại cho trào lưu này một cơ sở lý luận và một kích thước
thế giới, bên cạnh Stendhal, Balzac, còn có Dickens, Thackeray. Ngay từ những
năm 1823-1825, trong Racine và Shakespeare, Stendhal đã đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực, khi đề xướng một nền
nghệ thuật gần gụi với đời sống của người đương thời, không lệ thuộc vào những
khuôn mẫu thẩm mỹ xa rời các vấn đề của thời đại.
Chủ nghĩa hiện thực
hình thành trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa lãng mạn, đồng thời tiếp thu những
thành tựu của nó. Lúc mới ra đời, chủ
nghĩa hiện thực chưa tách khỏi chủ nghĩa lãng mạn. Mặc dù chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn khác biệt, song không
hề mâu thuẫn mà liên quan mật thiết, bổ sung cho nhau. Văn học hiện thực và văn
học lãng mạn có nhiều điểm chung: bối cảnh lịch sử, cơ sở tâm lý, những tìm tòi
mĩ học. Điều khác biệt ở hai chào lưu là ở chỗ cùng bất bình với thực tại,
nhưng các nhà hiện thực không quay lưng với thực tại, thoát ly nó trong sự tìm
tòi và thể hiện lý tưởng như các nhà lãng mạn, mà hướng về chính thực tại ấy,
tìm cách thể hiện đúng như nó tồn tại.
Khác
với nhân vật lãng mạn, nhân vật hiện thực không vượt lên môi trường, mà chịu sự
chi phối của môi trường. Tính cách của họ hình thành, chuyển biến, phù hợp với
sự biến chuyển của thực tế khách quan. Thế giới nội tâm mà các nhà lãng mạn đã
phơi bày, phân tích tinh vi được tiếp tục khai thác, thể hiện trong mối quan hệ
chặt chẽ với bên ngoài.
2.2.
Đặc trưng của phản ánh nghệ thuật trong chủ nghĩa hiện thực.
Đặc trưng phản ánh nghệ thuật là phương thức phản ánh và lý
giả đời sống theo cách riêng của nghệ thuật. Có thể nói đến những phương diện
biểu hiện của nó như: đối tượng phản ánh, kiểu tư duy, nội dung và thủ pháp phản
ánh, con đường tác động, cách thức tồn tại trong quá trình tiếp nhận… Phản ánh
chân thực cuộc sống và mong muốn hiện thực của người nghệ sĩ thông qua hình tượng
nghệ thuật, văn học đã từ đối tượng miêu tả và hình thức chiếm lĩnh đời sống để
đem đến cho người đọc, trao truyền cho họ những xúc động thẩm mĩ mãnh liệt.
Với
tư duy hệ thống và mô hình, người ta càng tiến đến xác định một cách nhất
quán hệ thống tiêu chí bao gồm những yếu tố làm nên tổ chức bên trong của
phương pháp sáng tác. Từ chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiện
thực là sự thay đổi của một quá trình. Đó là sự chuyển giao của một hệ thống
hoàn chỉnh hữu cơ những nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật được xác định bởi một
thế giới quan nhất định trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định, dùng để
phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì mô hình là: “hình thức diễn đạt hết sức gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng
chủ yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng ấy”. Mô hình nghệ thuật
chính là những yếu tố, đặc trưng bản chất nhất, thiết cốt nhất để cơ cấu nên
nghệ thuật. Mô hình phản ánh nghệ thuật tương hợp với đặc trưng phản ánh nghệ
thuật của từng giai đoạn, từng tác giả. Chủ nghĩa hiện thực với những đặc điểm
của riêng nó đã bộc lộ mô hình, đặc trưng nghệ thuật một cách sống động và “hiện
thực” nhất.
Theo
Lại Nguyên Ân, thì Chủ nghĩa hiện thực
là “nguyên tắc sáng tác mà cơ sở của nó
là các tính cách và hoàn cảnh trong tác phẩm nghệ thuật được cắt nghĩa ở bình
diện xã hội - lịch sử, sự liên hệ theo quy luật nhân quả giữa chúng, được khám
phá trong sự phát triển về chất nhờ việc điển hình hoá các sự kiện tồn tại, tức
là tương ứng với thực tại nguyên khởi…”. Khác với chủ nghĩa cổ điển và chủ
nghĩa lãng mạn thường chỉ bị chi phối một vài nguồn ý thức tư tưởng, chủ
nghĩa hiện thực có tham vọng phản ánh cuộc sống một cách toàn diện, cho nên nó
phải khơi nguồn ở nhiều phương diện khác nhau và cuối cùng thường kết tinh lại
thành một nguyên tắc nhất định.
Quy
luật văn học phản ánh hiện thực theo hình thức trọn vẹn và trực tiếp của cuộc sống,
là sự mô phỏng thực tại khách quan được coi là quy luật nghệ thuật tự trị từ
thời Aristote: Có thể nhìn nhận rằng những sáng tác của các nhà hiện thực chủ
nghĩa ở Châu Âu nửa sau thế kỷ XIX là sự phát triển đến đỉnh cao của quan điểm
nghệ thuật này. Tìm hiểu đặc trưng phản ánh của chủ nghĩa hiện thực để thấy được
tính truyền thống và sự quy phạm hoá của cơ sở nhận thức quan niệm về phản ánh
nghệ thuật thời kỳ này.
Khác
biệt và tạo sự cách tân với chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa
hiện thực đặc biệt chú ý tới sự khách quan hoá trong thể hiện nghệ thuật. Đây
là bước tiến lớn so với trừu tượng hoá và lý tưởng hoá hình tượng nghệ thuật
của chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn. Quan niệm để chính cuộc sống,
chính thực tại khách quan phát biểu ý nghĩa tự thân, qua hình tượng nghệ thuật
được bao phủ cả cái được phản ánh và cái phản ánh, trong chủ nghĩa hiện thực
thế kỷ XIX.
Trong
bình diện cái được phản ánh, chủ nghĩa hiện thực quan tâm và đề cao hơn cả là
những cảnh huống, hiện tượng chân xác của thực tại khách quan. ở đây các nhà
chủ nghĩa hiện thực luôn luôn chú ý tới việc nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của
khách thể miêu tả. Đó cũng là đối tượng trung tâm của chủ nghĩa hiện thực. Nhấn
mạnh sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả nghĩa là luôn để bản thân cuộc sống
được phơi bày một cách trực tiếp và tự nhiên như nó vốn có. Ở đây là cuộc sống,
là thực tại khách quan sống động, đang phập phồng và cựa quậy trong cuộc đời,
trong thế giới chứ không phải là sự tồn hiện trong ý niệm, trong lý tưởng như
các tiền chủ nghĩa khác. Coi cuộc sống chính là khách thể cần phải tôn trọng là
mục đích sáng tác của hầu hết các văn hào trong giai đoạn này. Stendhal luôn
cho rằng phải phát huy đến cao độ kiểu sáng tác tái hiện và ông coi nghệ thuật
phải như “một tấm gương xê dịch trên con
đường lớn”. Văn học sẽ phản ánh trung thực và chân xác nhất mọi biến thái
tinh vi và vận động của thực tại khách quan. Sự linh hoạt trong sáng tạo của
nghệ thuật nhưng luôn có giới hạn trong chu trình của hiện thực, của cuộc sống.
Đó là quan điểm và mục đích, phương châm sáng tác của người đặt nền móng cho sự
phát triển của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX.
Để
thể hiện đối tượng của khách quan, thể hiện cái được phản ánh thì cái phản
ánh của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX cũng có những phương thức, phương tiện
tương thích. Toàn bộ những nguyên tắc thẩm mĩ và những đặc tính loại hình của chủ nghĩa hiện thực được bộc lộ trong sự
phát triển của văn học thế kỷ XIX. Và lúc này tiêu chuẩn chủ đạo của tính nghệ
thuật chính là sự trung thành với thực tại. Vì vậy phương thức đầu tiên mà người
ta phải nhắc đến của chủ nghĩa hiện thực để nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của
khách thể miêu tả đó chính là sự phản ánh hiện thực theo các hình thức của đối
tượng. “Sự miêu tả không còn mang tính ước
lệ trừu tượng, phóng đại, nó đạt đến một mức độ mới của tính sống động, khiến
người ta có thể nói về các nhân vật văn học như về những con người sống thực.
Dạng phát triển nhất là hướng tới tính xác thực trực tiếp của sự miêu tả, tái
tạo đời sống trong hình thức của bản thân đời sống". Và lúc này sự
miêu tả đã phá vỡ tính ước lệ, phúng dụ… để vẹn nguyên trở về với sự thật trần
trụi của cuộc sống. Các nhà văn hiện thực luôn đặt con người trong một hoàn cảnh
xã hội cụ thể rồi triển khai sự phát triển tính cách của nó theo sự diễn biến của
hoàn cảnh đó. Đây cũng là quá trình đúc kết sơ bộ trên bình diện lý luận ở các
nhà văn và các nhà mĩ học thế kỷ XIX. Vì vậy, xây dựng tính cách điển hình
trong hoàn cảnh điển hình là quy tắc đầu tiên của hệ thống thẩm mĩ quy ước
trong phương thức sáng tác nói trên. Đây cũng chính là nét đặc thù, sáng lạ của
chủ nghĩa hiện thực so với chủ nghĩa lãng mạn và cổ điển. Trong chủ nghĩa hiện
thực, cá nhân tự nó là đối tượng trực tiếp của sự miêu tả; cái khái quát, cái
điển hình toát ra từ tính cách của con người cụ thể. Cá tính cao độ của nhân vật
sẽ làm cho nó trở nên sống động và gợi cảm hơn. Vậy là bản chất sự vật cũng như
của con người có nhiều tầng bậc và đều được khái quát vào văn học nghệ thuật
qua việc điển hình hoá. Sự điển hình hoá nhân vật chịu sự chi phối và có mối
liên hệ hữu cơ với hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình trở nên phong phú và đa dạng bởi vì nó chính
là con đẻ của hoàn cảnh điển hình.
Bên
cạnh những phương thức khách quan hoá hiện thực trên, chủ nghĩa hiện thực còn
thể hiện sự miêu tả với sự tôn trọng hiện thực khách quan một cách tối đa.
Nghĩa là nhà văn để cho tự nhân vật, cảnh huống... tự do thống ngự và phơi bày
đặc điểm, ý nghĩa của chúng trong tác phẩm. Không hề có sự bộc lộ trực tiếp hay
chủ động giáo huấn của tác giả. Tuy nhiên như thế vai trò của chủ thể sáng tạo
không đồng nghĩa với việc bị hạ giá. Bởi vì khách quan tuyệt đối là thứ không
thể đòi hỏi mà khi lựa chọn một lối viết, nhà văn đã đặt dấu ấn chủ quan lên
tác phẩm của mình.
Tất
cả những nguyên tắc sáng tác, những đặc trưng phản ánh nghệ thuật của chủ
nghĩa hiện thực thế kỷ XIX đã tạo thành hệ quy ước giá trị thẩm mĩ vững bền và
sâu sắc. Không ít người đã xem nó như một mô hình lý tưởng trong sáng tác
cũng như trong tiếp nhận văn học trong một thời gian dài. Tuy nhiên, chủ nghĩa
hiện thực không hề thụ động, rập khuôn trong những mô hình khuôn mẫu ấy mà họ
luôn quan tâm tới sự sáng tạo trong phản ánh. Vì vậy, họ vẫn sử dụng các biện
pháp cường điệu, ẩn dụ hay những yếu tố kỳ ảo…trong các tác phẩm của mình. Vì
thế giá trị thẩm mĩ của văn học thời kỳ này vẫn luôn hấp dẫn, tươi mới.
Theo
dòng chảy của lịch sử, chủ nghĩa hiện thực có vận mệnh phản ánh nghệ thuật một
cách đặc thù. Từ quan niệm phản ánh hiện thực giống như thật trong những luận
điểm khởi nguyên, chủ nghĩa hiện thực đã có nhiều thay đổi, cách tân trong việc
biểu đạt chính nó. Đó cũng chính là quy luật tất yếu của sự vận động tư duy
nghệ thuật và điều ấy cũng chứng tỏ năng lực sáng tạo kỳ diệu của người nghệ sỹ
trong phạm vi nguyên liệu vô cùng vô tận của cuộc sống.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT ĐIỂN HÌNH HÓA
TRONG
Chương 3: Phương thức xây dựng nhân vật điển hình hóa
trong Engenie Grandet của H. Balzac.
3.1.
Điển hình hóa nhân vật là gì ?
Theo nghĩa rộng, là tổng hòa mọi biện pháp nghệ
thuật nhằm làm cho hình tượng trở thành điển hình, là con đường đưa sáng tạo
nghệ thuật đạt tới chất lượng cao.
Điển hình hóa luôn luôn gắn với quá trình khái
quát hóa và cá thể hóa nhằm làm cho hình tượng vừa khái quát được những nét
quan trọng nhất, bản chất của đời sống, lại có được hình thức cụ thể, cảm tính
của cá thể, độc đáo, không lặp lại. Với ý nghĩa ấy, điển hình hóa là khái niệm
chung, chỉ một đặc trưng tiêu biểu của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Mỗi thời
đại lịch sử, mỗi trào lưu, trường phái văn học, mỗi phương pháp sáng tác thường
có những nguyên tắc điển hình riêng. Do đó, trong thực tế nghiên cứu người ta
thường nói tới các hình thức điển hình hóa cụ thể khác nhau như: điển hình hóa hiện thực chủ
nghĩa, điển hình hóa lãng mạn chủ nghĩa, hay điển hình hóa trong cổ tích, trong
tiểu thuyết, trong kí.
Trong nghĩa hẹp, điển hình hóa là hình thức
khái quát hóa đặc trưng của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, hình
thành trên cơ sở quan sát tính lặp đi lặp lại tương đối ổn định của các hiện tượng,
tính cách và quá trình cuộc sống cùng loại trong thực tế. Các nhà lí luận và
các nhà văn lớn của chủ nghĩa hiện thực thường sử dụng thuật ngữ điển hình hóa
với ý nghĩa này. L.Tônxtôi nói: “Cần phải
quan sát nhiều người cùng loại để sáng tác một điển hình nhất định”. Ở đây,
điển hình hóa gắn liền với cá thể hóa nhằm tạo ra những hình tượng có khả năng
thể hiện sinh động và nổi bật những nét quan trọng và bản chất của đời sống.
Song song với việc phát hiện và biểu hiện của
thuộc tính điển hình, nhà văn hiện thực luôn luôn tôn trọng tính nhân quả lịch
sử của các sự kiện và quá trình, tôn trọng qui luật phát triển tự thân của các
tính cách, các số phận và quan hệ khác nhau nhiều màu vẻ giữa tính cách và hoàn
cảnh. Vì vậy, quá trình điển hình hóa bao gồm sự điển hình hóa. Các chi tiết,
tình tiết, tính cách, số phận và hoàn cảnh. Hình thức khái quát này hình thành
trên cơ sở tôn trọng tính khách quan và tính qui luật của đối tượng nên đảm bảo
tính cụ thể - lịch sử trong sự khái quát. Tuy nhiên điển hình hóa của chủ nghĩa
hiện thực cũng không loại trừ những chi
tiết ly kì, thậm chí bề ngoài có vẻ phi lí, nhưng lại nêu bật được bản chất của
sự vật. Điển hình hóa nghệ thuật là hình thức khái quát hóa cao nất trong hình
thức khái quát. Phải có vốn sống phong phú, tư tư tưởng, tình cảm lớn, tài nghệ
cao cường, nhà văn mới tiến hành điển hình hóa thành công được.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình hóa trong Eugénie Grandet của Balzac.
3.2.1. Balzac dựa vào hoàn cảnh xã hội cụ thể để xây dựng nhân vật điển
hình.
Balzac là một nhà văn có tầm tư
tưởng lớn, ông dùng ngòi bút của mình vừa để phân tích một cách sâu sắc về hiện
thực xã hội Pháp đương thời vừa miêu tả tinh vi tâm lí nhân vật trong thế giới
nhân vật của ông. Tự nhận mình “người thư
ký trung thành của thời đại” vì vậy Balzac đã để cho nhân vật của mình được
thể hiện với tất cả tính đa dạng, phong phú của đời sống nội tâm. Cảm xúc, suy
nghĩ, cách xử sự của nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách xã hội của họ.
Điểm nổi bật trong bút pháp nghệ thuật của Balzac là đã xây dựng được nhân vật
điển hình, tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Về bản chất,
điển hình là một cá tính xác định, độc đáo riêng biệt khác nhau, có ở nhân vật
này mà không có ở nhân vật khác, nói như V. Biêlinxki thì điển hình chính là “người
lạ quen biết”. Để khắc họa được những nhân vật điển hình, Balzac đã đi sâu
vào phân tích tâm lý nhân vật dựa vào nghiên cứu thực tại khách quan, chọn lựa
chi tiết chân thực, đồng thời tác giả tôn trọng lịch sử thời đại đặt để nhân vật
của mình phát triển cá tính một cách tự nhiên hết sức sinh động trong hoàn cảnh
đó.
Tiểu thuyết “Eugénie Grandet”
xoay quanh cuộc đời và số phận ba nhân vật: lão Grandet giàu có keo kiệt, cô gái thánh thiện Eugénie và tên bạc tình đáng nguyền rủa
- Charles. Là một nhà văn hiện thực, Balzac đã khắc họa từng nhân vật một
tiêu biểu cho một bộ phận người nào đó trong xã hội tư sản lúc bấy giờ. Khi miêu tả Grandet, Balzac đã lột
trần từng mảng đen tối của bản chất giai cấp tư sản Pháp khi nó đang ở trên
đỉnh cao của sự phát triển. Với Grandet,
tác giả đã sử dụng giọng điệu lạnh lùng và khách quan để nói đến việc làm giàu
và ham mê tiền bạc của lão ta. Xây dựng những điển hình, Balzac luôn đặt trong sự tương
ứng và phù hợp với hoàn cảnh điển hình. Balzac luôn
tìm kiếm những nguyên nhân chính làm cho con người bị tha hóa, bị những dục vọng
đê hèn chiếm giữ. Bằng những vốn sống, kinh nghiệm từng trải của một nhà văn hiện
thực, Balaz đã đi sâu mổ xẻ quá trình
tích lũy của cải một cách ghê rợn của lão Grandet,
đi lên từ nghèo khó, xuất phát điểm của Grandet
chỉ là một bác phó thùng nhưng lão ta
đã giàu lên một cách nhanh chóng nhờ những mưu mô, tính toán khôn ngoan của
mình biết lợi dụng cơ hội để làm đồng tiền sinh sôi nảy nở. Cuộc cách mạng tư sản
Pháp đã mang lại thay đổi lớn cho cuộc sống con người bấy giờ, với những tiến bộ
của nó đã xóa bỏ mọi đặc quyền của giai cấp phong kiến, trao quyền tự do bình đẳng
cho công dân. Chính trong môi trường thuận lợi ấy đã tạo bàn đạp tốt để những kẻ
như Grandet có cơ hội làm giàu. Grandet xuất thân chỉ là một người đóng
thùng, nhờ xã hội thay đổi và vận may, lão đã đứng vào hàng ngũ của giai cấp tư
sản, quá trình tích lũy tư bản của lão có được nhờ vào sự vận động phát triển của
thời cuộc, quá trình làm giàu của Grandet
gắn chặt với thực tế nước Pháp sau cuộc cách mạng tư sản 1789.
Quá
trình thực hiện tham vọng của nhân vật này được tác giả tập trung khắc hoạ sâu
hơn so với các nhân vật khác. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là đặt mục tiêu
kinh tế lên hàng đầu và với chủ trương tự do cạnh tranh nên người ta không từ
thủ đoạn nào, sẵn sàng giẫm đạp lên đồng loại để đạt mục đích cá nhân của mình.
“Có tiền mới có hạnh phúc, không thì là
bánh vẽ”. Với sức mạnh của mình, đồng tiền đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của
đời sống xã hội với sức tàn phá khủng khiếp.
Balzac
khi xây dựng nhân vật điển hình cũng đồng thời xây dựng luôn những cá tính điển
hình, nó phù hợp với hoàn cảnh điển hình với sự chuyển biến của thực tế khách
quan. Về bản chất cá tính điển hình được xác định một cách độc đáo riêng biệt
khác nhau, có ở nhân vật này mà không có ở nhân vật khác. Từ chỗ xuất thân cơ
hàn, trải qua quá trình tích lũy, làm giàu, một khi có được tiền vàng của cải thì
trong suy nghĩ của Grandet là làm sao
cho những món hoa lợi ấy ngày càng sinh sôi nảy nở hơn nữa vì thế lão đã tính
toán mọi cách, cố gom góp tiền vàng vào mình nhiều hơn. Cũng chính sức hấp dẫn
lóng lánh từ những đồng tiền vàng mang lại mà trong con người Grandet đã sinh ra những toan tính ích kỷ,
nhỏ nhen đến ti tiện, biến lão thành một kẻ keo kiệt khủng khiếp.
Không
đơn thuần là một người có tính keo kiệt bình thường, Grandet đã biến mình thành kẻ vừa keo kiệt vừa lọc lõi, ranh mãnh
trong mọi việc, hắn luôn phải suy nghĩ tìm cách để hạn chế đến mức thấp nhất việc
phải tiêu tiền. Trong sinh hoạt gia đình, lão ta ban phát cho vợ con từng mẩu
đường nhỏ, phân phát cả kim chỉ, hay cả sự thắp sáng lão cũng tính toán…Còn
ngoài xã hội, Grandet cũng không có bạn
bè nhiều, không đến nhà ai chơi, không giúp đỡ ai việc gì mà phải tốn đến tiền.
Tuy nhiên, Grandet rất khôn ngoan,
lão đã che đậy tính ích kỷ với mọi người xung quanh bằng lối sống giản dị trong
sinh hoạt hằng ngày. Đến đây, ta có thể thấy được sự tinh tế trong việc miêu tả
cá tính điển hình nhân vật của Balzac,
ông đã khái quát được tính cách một con người như Grandet - sống hai mặt, bề ngoài là sự giản dị đáng khen tặng, là
lòng tốt có sự tính toán nhưng vẫn làm người khác ấm lòng song thực chất bên trong
lại là một con người ranh mãnh với bản tính keo kiệt như kiểu sợi tóc chẻ tư. Grandet là một điển hình sống động của giai cấp tư sản Pháp thế kỷ
XIX.
Khi
xây dựng cá tính của nhân vật điển hình, Balzac
đã đặt để cho nhân vật của mình vào mọi mối quan hệ, bị ràng buộc vào nhiều yếu
tố khách quan của cuộc sống để nhân vật của mình bộc lộ tính cách một cách chân
thực nhất, rõ nét đến từng chi tiết. Bên cạnh việc xây dựng tính cách keo bẩn, Balzac còn làm rõ sở thích hám của, si
mê những đồng tiền vàng đến mức tôn thờ nó của Grandet. Khi lão
thấy vàng lập tức mắt ông cũng lấp lánh
ánh sắc của đồng tiền vàng và đối với lão đồng tiền cũng sống, cũng nhốn nháo như con người: nó đi, nó lại, nó đổ
mồ hôi, nó sinh sôi nảy nở.
Điều mà Balzac muốn nêu bật lên qua hình tượng Grandet là lòng hám vàng đã giết chết ở lão những tình cảm thân
thiết nhất. Ngập chìm trong đống tiền vàng của mình, Grandet đã quên đi tất cả những người thân yêu bên cạnh mình, với
vợ ông ta chỉ xem như một nguồn vốn hời mà ông có được, còn với con gái có lúc
lão coi như kẻ thù, nó sẽ lột da, giết,
ăn thịt lão bằng việc thừa hưởng tài sản của mẹ nó. Còn cái chết bất hạnh
của em trai mình thì lão lại dửng dưng và lạnh lùng xem như đó là cái chết tất
yếu của một kẻ ngu xuẩn. Chi tiết Ông ta viết con tính lên tờ báo đăng
tin người em chết, bên tai, tiếng than vãn của người cháu nghe rất rõ ràng, tuy
ông không chú ý cho thấy bản chất thoái hóa nhân cách trong con người
Grandet trở nên ghê tởm đáng khinh
bỉ. Chính khối tài sản kếch xù ấy đã biến Grandet
thành đầy tớ chịu sự chi phối hoàn toàn và nghiễm nhiên Grandet đã tự biến mình trở thành nô lệ của nó. Với quyền lực vạn
năng của mình, đồng tiền đã điều khiển trí tuệ và tình cảm của tên đầy tớ trung
thành ấy.
Khác với
tính cách keo kiệt, hám vàng của Grandet,
nhân vật Charles được Balzac xây dựng tính cách điển hình theo
kiểu sự chuyển biến tính cách nhân vật
phù hợp với sự biến chuyển của thực tế khách quan. Charles – con người chạy theo tiền tài, danh vọng. Từ chàng công tử
Paris xinh đẹp, phong nhã, sống trong
sự bảo bọc của gia đình, chưa từng phải suy nghĩ đến tiền bạc bỗng một ngày
người cha giàu có của anh tìm đến cái chết, mọi thứ xung quanh anh trở thành
con số không, không tiền bạc, nhà cửa, không tình thương… Chính sự ra đi của
cha, lúc bấy giờ đã đánh động vào ý niệm sâu xa của Charles, vực dậy khát vọng làm giàu trong lòng chàng cậu ấm ngày
nào một cách đột ngột mãnh liệt. Với suy nghĩ sẽ tìm cách trả hết nợ cho cha, Charles đã đi sang Ấn Độ, lao vào những
năm tháng miệt mài kinh doanh, ở miền đất hứa ấy, đã nhào nặn một Charles thành một con người hoàn toàn
khác hẳn với tính cách trước kia. Charles
đã kiên quyết làm giàu bất chấp thủ đoạn, hắn giống như những người vội vã
sống cho xong cảnh đê hèn. Gã đã
chạy theo lối suy nghĩ sẽ xây dựng cơ đồ một cách rực rỡ và chóng vánh,
vì thế công việc làm ăn đều được xuất phát từ mục đích ấy. Hắn ta lại giống như
ông bác của mình, giờ đây chỉ có tiền và dục vọng là lẽ sống. Charles –
đại diện tiêu biểu cho một dạng người của chủ nghĩa tư bản. Nếu Grandet
là một tên tư sản nông thôn, thì Charles lại là hiện thân của một tên tư
bản hàng hóa thành thị. Con đường kiếm tiến của anh ta mang tính thương mại hơn
Grandet với những cách buôn hàng hóa đặc biệt
như buôn người và tổ yến, cho vay nặng lãi…
Giữa
Grandet và Charles rõ ràng đã có sự kế thừa, Balzac đã chứng tỏ được cái nhìn tinh vi của mình trong sự chuyển động
của thế giới tư bản. Từ thế hệ cha ông, đại diện là Grandet với quy mô kiếm tiền là để tích lũy, nhưng Grandet có tính toán khôn khéo thế nào cũng
chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm lợi nhuận từ những việc kinh doanh hàng hóa bình
thường quanh quẩn bên mấy gốc nho và những ly rượu vang mà thôi; đến thế hệ sau
mà không ai khác hơn ngoài ông cháu của mình, Charles đã thừa hưởng sẵn tính chất tư bản từ cha và bác mình,
nhưng Charles lại có kiểu kinh doanh
mới hơn đó là buôn bán người, một loại hàng hóa mới đã được sản sinh khi mà mô
hình kinh doanh của giới tư bản đã bước thêm một bước mới nữa. Balzac đã thẳng tay ném nhân vật của
mình vào vòng xoay của con tạo, trong cái thế giới dục vọng ấy, ông đã để nhân
vật tự mình phát triển tính cách hoàn toàn tự nhiên đúng như bản chất vốn có.
Quá
trình cá tính hóa của Charles còn được
Balzac miêu tả ở góc nhìn khác nữa,
không chỉ đại diện cho lớp người tư sản mới, trẻ tuổi, con đường làm giàu của
anh ta không còn bó hẹp trong phạm vi tiền bạc mà càng về sau, Charles đã cho ta thấy sự đam mê địa vị
còn lớn hơn sức mạnh của đồng tiền. Charles
quan niệm sự giàu có phải đi đôi với danh vọng. Và vì thế thay vì mê vàng như
ông bác, Charles lại mong muốn có được
sự tiến thân, muốn được bước chân vào tầng lớp quý tộc. Chính vì tham vọng điên
cuồng ấy, hắn ta đã lấy vợ, một người hắn không yêu nhưng cô ta sẽ cho hắn một
tước hiệu, địa vị mà ở Eugénie không
có được.
Nhân
vật Grandet, Charles là những con người đại diện, minh chứng sống động nhất trên
con đường làm giàu của giới tư bản rất phong phú trên mọi lĩnh vực song song đó
là quá trình tha hóa bản chất trong mỗi con người mà chất xúc tác lại chính là
sức mạnh của đồng tiền, nó đã hủy diệt nhân cách con người thật mạnh mẽ. Balzac đã hoàn thành sứ mệnh người thư
ký trung thành của thời đại, bằng ngòi bút lạnh lùng, khách quan của một nhà
văn hiện thực, ông đã miêu tả bản chất thật của xã hội đương thời, vạch ra từng
chi tiết cụ thể gắn với tính cách điển hình trong nhân vật điển hình để làm nổi
bật con đường phát triển làm giàu của giới tư bản. Có thể thông qua hai nhân vật
điển hình là Grandet và Charles, độc giả nhìn thấy được bức
tranh xã hội hiện thực Pháp thế kỉ XIX.
Đối
lập với tính cách của Grandet, Charles, Balzac đã làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ đó là một Eugénie trong sáng, ngây thơ, thủy chung
với tình yêu. Nhân vật Eugénie được
tác giả ưu ái nhất tuy nhiên đây cũng là nhân vật đáng thương nhất, Balzac đã để
cho Eugénie sinh ra trong một gia
đình có một người cha hám tiền và keo kiệt, tuy nhiên bằng tâm hồn thuần khiết
của mình, cô đã lớn lên trong sự giản dị đáng thương, phục tùng và biết nghe lời.
Khi
xây dựng nhân vật Eugénie, Balzac đã để tính cách của nhân vật phát
triển cùng với sự thức tỉnh của tình yêu, trong nàng bắt đầu có nhận xét và
phản ứng kể từ khi Charles xuất hiện
ở nhà nàng. Tình yêu của Eugénie với
người em họ xuất phát từ trái tim chân thành, kể cả việc đưa cả túi vàng cho Charles cũng hoàn toàn tự nguyện. Với
nhân vật này, ta thấy không có sự chi phối của đồng tiền. Cá tính của nhân vật Eugénie còn thể hiện ở thái độ “bình
tĩnh” khi lấy lại đĩa đường, “gan góc” đưa nho mời cha và Charles đến việc tặng vàng, bảo vệ kỷ
vật của người yêu, sự chống đối của nàng quyết liệt dần. Đương đầu với Grandet trong vụ túi vàng, nàng “lạnh
lùng” trước sự tra hỏi, “thản nhiên” khi bị quát mắng, và “kiêu
hãnh” chịu phạt giam. Điều đó khiến lão già Grandet phát khùng mà thừa nhận “gan lì hơn cả cha”. Dù xót
thương và yêu mến Eugénie vô hạn
nhưng Balzac vẫn lạnh lùng chỉ ra sự
thật đáng buồn. “Tối tối cái sân chầu của Eugenie vẫn đủ mặt bá quan”
như hệt bảy năm về trước, với Eugénie thì
việc “được tôn nữ hoàng dần dà làm nàng quen đi”, cái thói quen làm con
người tê liệt. Sau những tháng năm chờ đợi những gì còn lại với cô là cảnh đổ
vỡ hoàn toàn và ghê gớm. Eugenie mất
cả niềm tin tưởng, nàng nói với kẻ cầu hôn mình “Thưa ông chánh án, tôi biết
ông lấy tôi vì cái gì”.
Một người thánh thiện như Eugenie
quả là hiếm hoi trong xã hội tư bản, nhưng xã hội ấy có để yên cho những con
người hiền lành ấy không, hay nó buộc Eugenie trở thành người đồng lõa với nó.
Dẫu rất thương nhân vật nhưng Balzac đành
lạnh lùng chứng kiến nhân vật của mình đi vào ngõ cụt.
Eugénie trong sáng
trở thành vật hy sinh cho quá trình tha hóa của đồng tiền, số phận đau buồn của
nàng là sự hy sinh cho túi tiền của Grandet
và Charles. Eugéne cô đơn giữa những
vòng vây, những âm mưu, những toan tính tham lam và tàn nhẫn của giai cấp tư
sản, đây không phải là trường hợp bất thường mà là cảnh muôn đời diễn ra trong
khắp xã hội tư sản. Thế nên “cái quả tim cao quý chỉ đập vì tình thương yêu
lại mắc vào vòng tính toán danh lợi của người đời, tiền bạc đã truyền hơi lạnh
qua con người ấy và làm cho một người đàn bà hoàn toàn tình cảm đâm ra nghi ngờ
các thứ tình cảm”.
Dựa
vào hoàn cảnh xã hội cụ thể (nước Pháp thế kỷ XIX), Balzac đã xây dựng nên những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển
hình. Grandet, Charles nổi bật với quá trình làm giàu bất chấp thủ đoạn của giới
tư sản... Đồng hành với những mưu mô tính toán làm giàu nhân vật của Balzac còn bộc lộ cá tính riêng của
mình, tính keo kiệt, gia trưởng, hám tiền của Grandet; thói tiêu tiền hoang phí, đam mê địa vị, bạc tình của Charles; Một tiểu thư Eugénie ngây thơ, trong sáng và thánh
thiện nhưng cuối cùng vẫn không vượt thoát được gọng kìm của số phận...Với quan
niệm nghệ thuật phải gắn bó mật thiết với thế giới hiện thực, Balzac đã dùng ngòi bút sắc xảo len lỏi
vào từng ngõ ngách tâm hồn của con người để nói lên được cái tinh vi của cá
tính cũng như nêu lên được những nét đặc trưng nhất về bản chất bộc lộ thông
qua thực tế xã hội từ đó Balzac tạo
nên những nhân vật điển hình gắn với cá tính điển hình.
3.2.2. Balzac dựa vào
nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Yếu
tố để cấu thành một nhân vật điển hình chưa dừng lại ở việc dựa vào hoàn cảnh cụ
thể của xã hội, còn cần phải dựa vào nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Đây được xem
như tiền đề cơ sở để xây dựng tích cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình
Với
cái nhìn nghiêm túc và chuẩn xác, lịch sử trong con mắt của Balzac được diễn tả sống động hơn. Có thể
hiểu lịch sử trong tiểu thuyết của ông là lịch sử cụ thể xã hội, có sự vận động
và diễn tiến theo thời gian nói như vậy thì trong tác phẩm Eugénie Grandet lịch sử
được tác giả đưa vào đó chính là xã hội Pháp ba mươi năm đầu của thế kỷ XIX. Balzac đã xây dựng được bối cảnh cụ thể
cho tác phẩm, trong hoàn cảnh đó nhà văn đặt để nhân vật vào, cho nhân vật tự cọ
xát, tự phát triển tính cách của mình một cách toàn diện nhất. Sự tự phát triển
tính cách của nhân vật sẽ được gắn liền với sự tiếp diễn của thời gian và lịch
sử.
Khi
nhắc đến lịch sử trong tiểu thuyết nhiều người sẽ lầm tưởng đó là những con số,
bảng số liệu khô khan...không có sức hấp dẫn. Nhưng trái lại, khi đọc tác phẩm Eugénie Grandet của Balzac thì khác, ông đã vận dụng linh hoạt những yếu tố lịch sử vào
trong đấy, cuốn tiểu thuyết đã mở ra cho độc giả những năm tháng lịch sử của xã
hội Pháp thời kỳ giai cấp tư sản đang thắng thế, đang trên đà phát triển. Cùng
với đó là những con số của ngày tháng,
những tính toán ghi chép chi tiết trong việc làm giàu của Grandet hay Charles...Hoặc cũng là lịch sử nhưng không có con số cụ thể tuy vậy
Balzac vẫn khái quát được những hoàn
cảnh của những cá nhân trong tác phẩm.
Đọc
tác phẩm, bạn đọc sẽ thấy được cả một không gian, thời gian, sinh họat trong cuộc
sống thường nhật của xã hội Pháp đương thời, từ cuộc sống giàu có của tầng lớp
quý tộc đến nếp sống được gọi là giản dị
quá mức của bác phó thùng. Trước mắt độc giả hiện lên một thị trấn Xômuya với ngôi nhà
mang dáng dấp ủ dột [...] Ở đấy có những
ngôi nhà trải qua ba thế kỷ vẫn còn đứng vững mặc dù là nhà gỗ, nhà nào cũng có
vẻ riêng của nhà ấy. Balzac đã
miêu tả khoảng không gian được cho là sang trọng trong căn nhà của Grandet: “tựa tường, ở khoảng cách giữa hai cửa sổ, một cái bàn chơi bài cũ kỹ,
mặt bàn bằng đá, khảm theo hình bàn cờ. Trên bàn một cái phong vũ biểu hình bầu
dục viền đen […] hai cửa sổ đều treo màn lục điều tơ sợi, dệt ở Tua”. Chỉ
thông qua đoạn văn ngắn đấy thôi, người đọc đã phần nào thấy được nếp sống của
đa phần người dân Pháp bấy giờ.
Theo
quan niệm của Balzac thì ngoài khả
năng viết văn, ngôn từ điêu luyện và trí tưởng tượng thì nhà văn hiện thực còn
cần phải trang bị một khối kiến thức sâu sắc, tỉ mỉ về những sự kiện xảy ra
trong quá khứ, những đặc điểm và những phong tục của người dân để có cứ liệu lịch
sử mang đến cho văn học bức tranh xã hội đủ màu sắc, nơi khi người đọc thông
qua đó mường tượng ra được một xã hội cụ thể sinh động và luôn luôn trong trạng
thái chuyển động.
Trong
tác phẩm của ông, nổi bật trên nguyên tắc lịch sử cụ thể đó là sự chi tiết hoá, cụ thể hoá thời gian.
Tính chính xác và cụ thể của sự kiện được Balzac
sao chép lại nguyên vẹn, nhà văn kê khai tài sản của lão Grandet chỉ với của nổi người ngoài nhìn vào thì: “Ông trồng một trăm mẫu nho, những năm được
mùa thì có thể cất bảy tám trăm thùng rượu vang. Ông có mười ba trang ấp, một
nhà tu cũ, [...] rồi một trăm hai mươi bảy mẫu cỏ trên ấy sởn sơ ba nghìn gốc bạch
dương trồng từ năm 1793. Và cuối cùng, ngôi nhà hiện ông ta ở cũng là sở hữu của
ông”. Những yếu tố cụ thể và những con số chỉ đơn vị cả về thời gian lẫn vật
chất được Balzac ghi lại một cách tỉ
mỉ, tạo nên được hiểu quả nghệ thuật cao, đem đến sự chân xác đến từng chi tiết.
Balzac đã để người đọc đồng hành cùng
với mình, lúc này người đọc cùng sống lại giây phút lịch sử cùng thời ấy. Có thể
thấy nguyên tắc lịch sử cụ thể đã in dấu rõ nét trên từng trang văn của Balzac.
Văn
học hiện thực được xây dựng trên sự thống nhất về tính chân thực của điển hình
và của những chi tiết. Balzac đã từng
nêu lên quan điểm của mình “tiểu thuyết sẽ
không là gì cả […] nếu nó không chân thật trong chi tiết”. Sự chân thực của
các chi tiết giúp tô đậm cho nhân vật tạo nên nhân vật điển hình. Nhà văn đã
dùng những chi tiết một cách chân thực nhất để miêu tả thổi vào nhân vật cái thần
thái thông qua chi tiết. Hình ảnh của vị phu nhân Grandet giàu có, xương xẩu, dật dờ đầy an phận và cả đời ốm yếu,
nhu nhược được miêu tả trong hệ những chi tiết “Grandet là một người đàn bà khô đét và gầy guộc, vàng như quả thị, vụng
về, chậm chạp, bà thuộc loại phụ nữ trời sinh ra để chịu áp bức. Xương cốt to,
mũi to, trán to, mắt to, mới trông bà hao hao giống những quả cây xốp”.
Trong
vô vàn chi tiết lớn nhỏ, thật khó xác định đâu là những chi tiết đắt nhất, có
tính chất cốt lõi nhất, tạo được độ căng cho tác phẩm nhiều nhất...Vì thế
Balzac đã phải chăm chỉ quan sát nghiền ngẫm, nhặt nhặn và chọn ra được những
chi tiết đắt giá nhất có tính khái quát cao nhất. Với lão Grandet, thì chi tiết điển hình nhất chỉ hành động lúc lão lâm
chung, giây phút chuẩn bị lìa xa cuộc đời, Grandet
đã biểu hiện trọn vẹn tính ham mê vàng tột cùng của mình “Khi cha xứ đến rửa tôi cho ông, cặp mắt ông đã chết lờ đờ từ lâu bỗng
nhiên sáng lên khi nhìn thấy cây thánh giá, đôi đèn, lọ nước thánh bằng bạc.
Ông nhìn chằm chặp những thứ ấy và chóp mũi ông động đậy lần cuối. Khi ông cố đạo
đưa cây thánh giá mạ vàng kề môi ông để ông hôn hình Đức Chúa Giesu thì ông
vùng lên một cách khủng khiếp để chụp lấy cây thánh giá”.
Miêu
tả nhân vật Eugénie, những chi tiết của
Balzac còn len lỏi vào sâu tận những
cung bậc, biến thái rung động tinh vi của cô thiếu nữ khi mới bước vào yêu. Khi
họ ngây ngất, đắm say đón nhận thứ mật ngọt lịm của tình đầu đang rưới lên tâm
hồn thánh thiện của mình. “Trong cuộc đời trong trắng và tẻ
nhạt của các cô thiếu nữ, bỗng xảy đến cái giờ phút kỳ diệu mà cõi lòng bừng
đón ánh sáng mặt trời và tiếp nhận nỗi niềm tỉ tê của hoa lá. Lúc ấy sự sống
dạt dào và nóng hổi từ con tim phập phồng dâng lên trí óc và làm mọi ý nghĩ hòa
tan thành một niềm khát khao mơ hồ. Cái giờ phút ấy là giờ phút bâng khuâng vô
tội và thích thú trâm trầm: khi đứa trẻ bắt đầu nhìn thấy sự vật thì nó mỉm
cười như hồi thơ ấu. Nếu ánh sáng là tình yêu thứ nhất trong đời người, thì
tình yêu không phải là ánh sáng trong lòng người sao?”
Như
vậy, từ việc xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, cho đến đề cao sự chân thực trong chi tiết và sự
chi phối của nguyên tắc lịch sử - cụ thể đã giúp Balzac xây dựng nên nhân vật điển hình cho tác phẩm của mình một
cách hoàn hảo nhất.
KẾT LUẬN
Tự nhận mình
là thư kí của thời đại, Balzac đã
đứng ra kể lại một cách chân thực khách quan về những gì ông mắt thấy tai nghe.
Trước thời đại đảo điên vì sức mạnh của kim tiền ông buộc phải đánh vào nó
những lời phán xét chua cay, những câu mỉa mai trào phúng.
Bước đầu nghiên cứu tác phẩm của Balzac, cụ thể ở đây là tiểu thuyết Eugénie Grandet, nhóm chúng tôi đã phần
nào khái quát được cách thức xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển
hình của Balzac. Tác giả dựa vào hoàn
cảnh xã hội cụ thể cộng với nguyên tắc tôn trọng lịch sử khách quan, sự chân
thật trong từng chi tiết để xây dựng nên những nguyên mẫu điển hình. Đến đây
chúng ta đã có một vài ý niệm về nền văn học Pháp thế kỉ XIX. Đây là một thế kỉ
chứng kiến và thể hiện sự phát triển của đồng tiền tư bản. Những đồng tiền tư
bản có mặt trái ghê gớm của nó. Nó có thể đảo lộn nhân cách và số phận con
người. Bởi thế văn học hiện thực là tiếng nói lên án, phản ánh những họat động
phi nhân tính, mất đạo đức, những thế lực chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc
của con người. Balzac đã dùng ngòi
bút của mình thể hiện một cách sâu sắc nhất về hiện thực cuộc sống, tìm ra được
quy luật và những quá trình xã hội vận động theo sự phát triển của lịch sử. Bằng những
kinh nghiệm sống cùng khả năng lao động sáng tạo không ngừng đã làm nên
thành công cho tài năng Balzac. Với Eugénie Grandet, Balzac đã hoàn thành vai trò của “người thư kí trung thành” của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lê Tiến Dũng (2003), Lý luận văn học phần
tác phẩm văn học, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
2.
Trần Thị Bảo Giang - Nguyễn Hữu Hiếu, Khái
lược lịch sử văn học phương Tây thế kỷ XVII-XIX, Khoa ngữ văn, Trường Đại học
Đà Lạt.
3.
Đặng Anh Đào (2004), Ô.Đơ Banzăc và một thế giới đang bước đi, NXB Trẻ - Hội
nghiên cứu & giảng dạy văn học TPHCM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét