Nguồn:
http://giangnamlangtu.wordpress.com/2011/07/13/van-h%E1%BB%8Dc-ph%C6%B0%C6%A1ng-tay-1/
Racine (1639-1699) và bi kịch Andromaque
Nhà thơ Racine- người kế tục nhưng trước đó là đối thủ số một
của Corneill trên sân khấu. Thực sự nổi tiếng ở nửa sau thế kỉ XVII,
Racine làm cho kịch cổ điển đạt tới đỉnh cao hoàn hảo về nghệ thuật xây dựng
mẫu nhân vật và sự phân tích tâm lí tinh tế.
Với Racine, những người phụ nữ và
những nhà vua chúa yêu đương nạn nhân khốn khổ của sự thèm khát chaý bỏng
-đã chiếm lĩnh sân khấu, thay thế cho những tâm hồn cao thượng của thời
Corneill, đã phản ánh bước ngoặt phức tạp của lịch sử và văn học, tâm trạng
chán chường của những tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội Pháp những năm cuối triều
vua Louis XIV. Racine sáng tác một cách tự nhiên, tài tình khi phản ánh
chân thực hiện thực Pháp trong khuôn khổ tù túng của qui tắc cổ điển chủ nghĩa
chính thống. Nhà phê bình văn học Boileau viết cuốn "Nghệ thuật thi
ca" (hoặc Nghệ thuật thơ) tổng kết lí luận văn học ưu tú của "đại thế
kỉ" chủ yếu dựa vào sự nghiên cứu những vở kịch thơ xuất sắc của Racine.
Nghệ thuật kịch của Racine liên tục đặt ra những vấn đề lí
luận mới cho thế kỉ XVII và cả những giai đoạn sau nữa . Có lúc, nhà nghệ sĩ được
sùng bái hết mức, lúc khác lại bị coi là thứ đồ cổ trong viện bảo tàng. Nghệ
thuật Racine luôn luôn là chỗ dựa cho nhiều trường phái nghệ thuật mới , nhất
là các trường phái hiện đại ở Phương Tây . Racine vừa cổ điển lại vừa hiện đại
.
Racine- nhà bi kịch của con người hai mặt- sinh ngày 22
tháng 12 năm 1639 tại Ferte Milon trong một gia đình công chức khá giả ... Lên
bốn tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, Racine ở với bà nội và cô ruột. Cô đi tu, cậu
bé cũng theo vào học luôn ở tu viện Po Royal. Vài năm sau, cậu bé được gửi tới
trường trung học Bove để học các khoa học nhân văn . Trở lại Po Royan, Racine
tiếp tục thụ giáo những người thầy uyên bác của giáo phái Jeansenis nổi tiếng về
sự khắc kỉ đạo đức, bi quan yếm thế về thế giới và nhân sinh. Họ cho anh tiếp
xúc với thi ca của Homer, triết học Platon . . .(cổ Hi Lạp). Nói chung
anh được học nhiều về văn hoá cổ Hi-La. Họ cố gắng làm cho Racine cậu học trò
trung học rung động với vẻ đẹp của tiếng Pháp. Sự đào tạo có tính chất tôn giáo
đạo đức và những kiến thức theo quan điểm Jeansenis đã đặt cơ sở vững chắc
, để lại ảnh hưởng sâu xa trong nhà nghệ sĩ Racine sau này. Những ảnh hưởng đó
là: Cảm quan đen tối về cuộc đời . Mầm mống yếu hèn, tội lỗi trong bản chất con
người và sự bất lực của nó trước sự xô đẩy của những thế lực thù địch. Những ước
mơ thầm kín về tự do, dân chủ và nhân đạo. Nỗi khát khao hướng về cuộc sống vô
thần và những thú vui trần tục. Đó là những mâu thuẫn rồi sẽ chi phối cuộc đời
và sáng tác văn học của Racine.
Rời khỏi tu viện Po Royal, Racine đi Paris, tiếp xúc với các
nhà văn và những người trí thức tiến bộ . Anh bắt đầu làm thơ và say mê sân khấu.
Năm 1660, nhân lễ cưới của nhà vua, Racine viết bài thơ "Tiên nữ sông
Seine" dâng lên vua, được thưởng 100 đồng livre . Racine thử viết kịch .
Lo lắng trước con đường đời của Racine , gia đình tìm cách kéo con ra khỏi cái
thế giới văn học nghệ thuật đáng lo ngại. Racine phải đến thị trấn Undex chuẩn
bị nhận chức thày dòng .Trong khi chờ đợi , Racine tranh thủ làm thơ . . .
Năm 1663 , Racine trở lại Paris, cho xuất bản hai tập thơ
"Đức vua bình phục" và"Vinh quang của các thi thần".
Hai tập thơ được dư luận chú ý , tác giả được mời gặp mặt ở triều đình. Racine
kết thân với nhà phê bình Boileau và chuyển hẳn sang viết kịch .Hai vở đầu tay
"Người thành Thebes" và "Alexandre đại đế" được biểu diễn
kết quả tốt nhờ đoàn Kịch hoàng gia của Moliere. Sau đó ông chê diễn viên của
Moliere , đưa vở kịch kế tiếp cho đoàn kịch khác diễn. Việc này gây ra mối
bất hoà với vua hài kịch Moliere. Mấy tháng sau, nhận được một bức thư của
một thầy học cũ thuộc giáo phái Jeansenic viết :" Nhà văn nhà viết kịch là
những kẻ đầu độc, không phải thể xác mà tâm hồn những người sùng tín",
Racine nghĩ rằng thầy cũ có ý ám chỉ mình, ông viết thư trả lời gay gắt bênh vực
nhà văn nhà thơ và phê phán giáo phái Jeansenis . Từ đó Racine đoạn tuyệt với
tu viện Po Royal .
Thắng lợi đầu tiên đem lại niềm tự hào lớn và khẳng định
vững chắc vị trí và tài năng của Racine là vở bi kịch Andromaque được
công diễn lần đầu tại triều đình năm 1667. Vở kcih5 tác động mạnh đến công
chúng Pháp và chia họ thành hai trận tuyến đối lập. Nó báo hiệu sự xuất hiện một
phong cách bi kịch mới lạ so với bi kịch anh hùng của Corneill giai đoạn
trước. . . Sau đó liên tục trong 10 năm Racine cho ra mỗi năm một vở, vừa dần dần
chinh phục khán giả vừa đẩy lùi các khuynh hướng đối lập . . . Racine bị phê
phán là "kịch mang tính phi đạo đức" từ những kẻ bất tài đố kị
đối lập, thù địch. Ông trở nên nản lòng, ngừng sáng tác và trở lại hoà giải với
tu viện Jeansenis. Tuy thế, ông vẫn được vua Louis chọn làm thư kí riêng, rồi
làm nhà viết sử của triều đình. Năm 1689 theo yêu cầu của hoàng hậu, ông viết vở
kịch dựa theo Kinh Thánh dành cho những nữ sinh của nhà tu Saint Sier tập diễn
trong nội bộ. Vở kịch có một phong vị riêng, dàn đồng ca phụ hoạ, nội
dung đề cao lòng nhân ái và sự khoan dung tôn giáo của nhà vua. Sau đó ông viết
vở kịch tôn giáo thứ hai Atali" - đây là vở kịch cuối cùng của sự đổi
mới lớn lao táo bạo.
Sau Atali, Racine soạn cuốn "Lược sử Po
Royal" in đậm tư tưởng giáo phái Jeansenis. Rồi ông nghỉ viết lui về giao
thiệp với những người Jeansenis. Lúc này giáo phái không ủng hộ sự độc đoán của
nhà nước chuyên chế nên Racine bị vua Louis XIV nghi ngờ, bỏ rơi. Racine chết
năm 1699, chôn tại tu viện Po Royal.
Bi kịch của Racine được chia làm 3 giai đoạn trong 30 năm
sáng tác .
Giai đoạn 1- hai vở kịch có nguồn gốc văn học cổ Hi Lạp- La
mã, chưa hình thành phong cách riêng, chỉ là sự nối tiếp bi kịch anh hùng (kiểu
Corneill) hoặc bi kịch phong nhã .
Giai đoạn 2- bước đi mạnh mẽ dứt khoát lộng lẫy hào quang,
liền một mạch từ vở Andromaque đến Federer. Đây là giai đoạn
của những vở bi kịch hay nhất. Những nhân vật luôn luôn chất chứa trong lòng nỗi
thèm khát cá nhân ghê gớm, thèm khát yêu đương hoặc quyền thế mang tính đen tối,
tội lỗi. Nó nung nấu ruột gan con người, thôi thúc người ta tìm cách thoả mãn
mau chóng bằng mọi giá. Nó được miêu tả như một định mệnh khắt khe không rõ
nguyên nhân nào thôi thúc. Sụ thèm khát đó vấp phải trở lực cũng mạnh mẽ
chẳng kém- đó là Lí trí luôn cố giữ con người theo lẽ phải. Cuộc xung đột âm thầm
mà quyết liệt giữa thèm khát tội lỗi và lương tri sáng suốt là xung đột cơ bản
trong kịch Racine. Thèm khát không thoả mãn càng nóng bỏng và chuyên chế.
Kết quả là sự thất bại của Lí trí, gây ra kết cục đau thương khủng khiếp của
nhân vật chính. Racine mở ra loại thể mới - bi kịch tâm lí .
Bi kịch tâm lí của Racine có giá trị hiện thực và nhân văn
sâu sắc. Nó phản ánh thực tế lịch sử sinh động của xã hội Pháp dưới cái nhìn tiến
bộ của nhà văn . Sang nửa sau thế kỉ XVII , chế độ quân chủ pháp bước vào thời
kì ổn định và thịnh vượng khi các thế lực phong kiến cát cứ địa phương đã tê liệt
chịu qui phục triều đình của hoàng đế, họ được phong tước và sống bám lấy triều
đình. Quan chức trở thành lũ ăn bám, lượn lờ xu nịnh, cầu cạnh ân huệ bổng lộc,
sớm tối lu bù yến tiệc, vũ hội, săn bắn, biểu diễn văn nghệ . . .Họ không bàn
chuyện chính trị và lợi ích quốc gia dân tộc. Không dễ dàng gạt bỏ lợi ích cá
nhân vì một nghĩa vụ chung . Sống nhàn tản, họ vùi đầu vào những chuyện riêng
tư trong phạm vi xã hội thượng lưu. Người ta thích tỏ ra tế nhị, lịch sự, ăn
nói có duyên, hiểu tâm lí, chiều chuộng phụ nữ . . . Yêu đương không chỉ là nhu
cầu mà còn là thú vui thời thượng. "Con người phong nhã" đã thay thế
“con người anh hùng cứu nước” của nửa đầu thế kỉ.
Tình trạng ấy phù hợp cuộc sống xa hoa phù phiếm chốn cung
đình nhưng rất xa lạ thậm chí đối nghịch với kì vọng của nhân dân và trí thức về
một chế độ quân chủ tập trung có khả năng phát huy hơn nữa "sự vĩ đại
Pháp" .
Là một nghệ sĩ cũng là một quan chức nhiều năm gắn bó với
triều đình Louis XIV, Racine đã thấy và phản ánh được cả một tầng lớp xã
hội Pháp vào tác phẩm. Những vở kịch tâm lí của Racine đã thoả mãn được cơn
khát văn hoá nghệ thuật của thời đại. Càng về cuối thế kỉ XVII, chính quyền
Louis XIV càng tha hoá và độc đoán, trở nên thù địch với nhân dân. Quần chúng bất
bình, các nhà văn nghệ sĩ cổ điển tiến bộ đã dũng cảm tố cáo nạn chuyên chế đó.
Những vở bi kịch của Racine xây dựng đề tài từ những thèm khát uy quyền địa
vị cá nhân . . . đã trở thành vũ khí sắc bén chống cường quyền bạo chúa, phát
ngôn lời kết án của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của xã hội, đấu tranh cho
tự do dân chủ.
Trong khi phản ánh cuộc sống hiện thực, Racine để lại những
dấu ấn riêng của nghệ sĩ. Đó là tâm hồn nồng nhiệt, dễ bị kích động và những
mâu thuẫn bên trong của mình: Sùng đạo nhưng lại say mê vẻ đẹp nhân văn cổ đại
Hi Lạp La mã; Ràng buộc với tu viện Po Royal nhưng lại khó dứt ra khỏi cung điện
Verseill (cung vua) hoa đăng lộng lẫy; Vừa muốn làm nhà giáo dục đạo đức chính
thống vừa náo nức muốn làm người thức dậy tâm hồn quần chúng; Cố tỏ ra làm tròn
bổn phận nhưng lại mắc lỗi với vua, với thầy cũ, với bạn và vợ . . .Hình như có
hai con người đối lập giành giật chiếm giữ con người Racine: một con người
lí trí chịu ảnh hưởng tôn giáo và phong kiến, người kia là con người
đầy cảm tính luôn hướng về cuộc sống thực tế đầy hấp dẫn, cám dỗ. Chính
tác giả đã có lần tự thú như vậy. Tính bi kịch "con người hai mặt"
trong cuộc sống của Racine là yếu tố quan trọng làn nên tính bi kịch trong tác
phẩm nghệ thuật của ông.
Có lẽ Racine đã từng nghiền ngẫm cuốn tiểu luận khoa học của
Descartes "Bàn về những thèm khát của tâm hồn". Racine đã đào
sâu vào tâm lí con người, chọn những thèm khát cá nhân làm đối tượng miêu tả
chính. Nhà triết học đã lôi kéo nhà văn cùng góp phần giải quyết vấn đề có tính
thời sự của xã hội Pháp nửa sau thế kỉ XVII.
Trong tác phẩm, Racine không kết tội, đôi khi có vẻ đồng
tình với thèm khát. Thật ra , nỗi thèm khát là một hiện tượng tâm lý nếu được dẫn
đắt thích hợp thì có thể nâng tâm hồn đến với những công việc vĩ đại (Luận văn
của Diderot - thế kỉ Ánh sáng 18). Những nhân vật bi kịch của Racine thất bại
đáng kết tội chẳng phải vì họ thèm khát đắm say một con người hay ham mê cái
ngai vàng. Theo Racine cái khát vọng ấy vốn là có sẵn trong con người, ở ngoài
sự lựa chọn của con người. Đó là thèm khát chống phong kiến để giải phóng bản
năng, tự do dân chủ. Nó khát vọng muốn nâng cao con người nhân văn chủ nghĩa Phục
Hưng từng một thời được thể hiện ào ạt, nay cần được thể hiện trong phạm vi hẹp
và sâu sắc hơn. Nó chính là nhu cầu của giai cấp tư sản đang tiến lên. Nó
đi tìm một sự quân bình mới, sự thăng bằng của lí trí và tình cảm cảm xúc khiến
cho cá nhân có thể phát triển cân đối hài hoà . . . Nhìn thấy được những nét
lành mạnh quí hiếm trong các tâm hồn tội lỗi, tác phẩm của Racine in dấu một
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa chân chính.
Giai đoạn 3 - không có nhiều tác phẩm như hai giai đoạn
trước , nhưng lại là bước ngoặt quan trọng đảo lộn cả cuộc sống và nghệ thuật
bi kịch.
GIỚI THIỆU VỞ KỊCH TIÊU BIỂU: ANDROMAQUE
Bối cảnh: thành Troie (Ilion) thời hậu chiến .
Nhân vật:
Andromaque - vợ goá của dũng sĩ hoàng tử Hector (thành Troie
thất thủ)
Pyrus - lãnh chúa mới của thành Troie, gốc người Akay, con
trai của anh hùng Achill quá cố trong cuộc chinế tranh 10 năm đánh thành Troie
..
Ecmion - công chúa con vua Menelax xứ Hi Lạp (Akay), người
yêu của Pyrus
Oreste - tướng Hi Lạp, say mê đeo đuổi Ecmion .
Tóm tắt cốt truyện kịch :
Pyrus đã đính hôn với công chúa Ecmion nhưng khi đến cai quản
thành Troie anh lại đem lòng yêu Andromaque vợ goá của dũng sĩ Hector . Andromaque
tỏ ra một mực giữ thuỷ chung với chồng và trọng danh dự thành bang, nàng
kiên nhẫn chối từ lời cầu hôn của con trai kẻ thù. Nàng cố không bị nao núng
trước sự cầu hôn nồng nhiệt thiết tha của tướng trẻ Pyrus. Trong khi đó , biết
tin người yêu đang bỏ rơi mình, công chúa Ecmion lo lắng bồn chồn . . .
Giữa lúc đó, Oreste viên tướng trẻ - người đang theo đuổi công chúa
Ecmion nhận được lệnh nhà vua Menelax đến thành Troie truyền lệnh cho Pyrus phải
bắt đứa con trai nhỏ của Hector (tên cậu bé: Astianax) đem về xứ Hi Lạp để trừ
hậu hoạ .
Thừa dịp này Pyrus ép nàng Andromaque nhận lời lấy y và hứa
sẽ bảo toàn tính mạng đứa con trai. Còn Oreste nhân chuyện này cũng lo tính
giành lấy tình yêu của công chúa Ecmion. Nàng Andromaque lo sợ bàng hoàng trước
tình thế nan giải . Chịu nhục kết hôn với kẻ thù thì cứu được con trai , chưa
có cách nào hơn , nàng đành ưng thuận lời cầu hôn của Pyrus . Tướng trẻ
Pyrus quên hẳn mệnh lệnh của nhà vua , anh ta vui mừng chuẩn bị đám cưới. Còn
Ecmion căm hờn vị bị ruồng bỏ, nàng hứa sẽ nhận lời cầu hôn của Oreste và yêu cầu
anh ta giết chết Pyrus cho hả giận. Tướng Oreste cũng vì say mê
nàng công chúa mà liều lĩnh ra tay sát hại Pyrus sau giờ hôn lễ .. . Nàng công
chúa Ecmion vẫn còn nặng tình yêu Pyrus, hối hận , nàng xỉ mắng Oreste rồi
tự vẫn bên xác người yêu . Còn Oreste nhực nhã tuyệt vọng phát điên và bị hoàng
hậu Andromaque vừa lên ngôi cai trị thành Troie phát lệnh truy nã,
y được đám lính đưa đi chạy trốn biệt xứ .
GỢI Ý PHÂN TÍCH :
Xét về mặt hình thức, Andromaque là nhân vật chính - nhân vật
nữ anh hùng chiến thắng (được nhà thơ đặt tên vở bi kịch). Nàng cố bảo vệ
danh dự của chồng và danh dự thành bang công đồng Troie. Nàng ứng biến tuỳ thời
để bảo vệ sinh mạng con trai - nó cũng niềm hi vọng của thành bang. Nhưng khi
chúng ta xét toàn bộ vở kịch , thực sự nàng chỉ là nhân vật chính giả. Ý đồ nghệ
thuật xây dựng nhân vật này để làm điểm tựa cho bối cảnh, mặt khác để nguỵ
trang vượt qua kiểm duyệt và mũi nhọn chỉ trích của triều đình. Thực sự những
nhân vật còn lại mới là nhân vật bi kịch chính thức.
Hành động kịch của Andromaque bề ngoài có vẻ phức tạp quyết
liệt song thực tế vẫn là đơn giản, chưa phải là hành động bi kịch. Tuy
nhiên nàng vẫn được coi là hình ảnh người vợ người mẹ đẹp đẽ và cao cả, đáng ngợi
ca trên những vần thơ vì tấm gương quên mình… Nàng khéo léo chối từ kẻ cầu
hôn, rồi lại nhẫn nhục đến gặp công chúa Ecmion để cầu xin cho con trai
nhưng vô hiệu quả. Nàng biết khéo léo nhen nhóm hi vọng cho kẻ si tình để kéo
dài thời gian ... Nàng là hình ảnh người vợ, người mẹ lí tưởng biết xử lý
hài hoà giữa lí trí và tình cảm.
Pyrus mới thực sự là hình ảnh đại diện của con người
đương thời nửa sau thế kỉ 17. Anh ta luôn luôn bị mối tình si lôi cuốn. Bản chất
của anh hiền lành, quảng đại, khiêm nhường có thể trở nên ông vua tốt của xứ sở
Troie mới chinh phục. Nhưng vì tuổi trẻ bị cơn thèm khát chiến thắng thúc giục,
anh trở nên nóng nảy. Hai tính cách: lãnh chúa thô bạo và anh hùng phong nhã
giành nhau trong bản thân Pyrus. Tuy là kẻ anh hùng chiến thắng, vì say mê sắc
đẹp của Andromaque đến nỗi anh hạ mình hết mức cầu xin tình yêu của người phụ nữ
yếu đuối. Nàng chẳng có gì ngoài sắc đẹp và nỗi khổ đau. Những cuộc đối thoại
giữa hai con người thay bậc đổi ngôi: nàng là nữ hoàng còn chàng là kẻ đầy
tớ, thật éo le, dồi dào kịch tính. Say đắm Andromaque, anh ta quên hết lời hẹn
ước hôn nhân với công chúa con vua Menelax. Say mê Andromaque, anh khinh rẻ cả
đống tro tàn còn âm ỉ cháy ngọn lửa hận thù ở thành Troie. Say mê Andromaque, anh
ta dám chống lại cả vương triều tổ quốc Hi Lạp hùng mạnh.Và say đắm Andromaque,
anh ta quên cả cảnh giác giữ gìn tính mạng. Tình yêu làm anh ta trở nên hung dữ,
đáng sợ càng thèm khát ráo riết hơn. Anh ta dùng mọi thủ đoạn để chinh phục
trái tim Andromaque -người vợ goá, không bận tâm vì cái tang chồng của nàng. Và
khi nàng chấp thuận lời cầu hôn thì Pyrus lại chứng tỏ là kẻ nam nhi có tình
yêu chân chính cao thượng, sẵn sàng từ bỏ tổ quốc Hi Lạp để bảo vệ đứa
con trai của người mình yêu. Đó là những tình huống bi kịch thật sự, không hề
giản đơn, một chiều và chưa thấu tâm lí như Andromaque...
Đôi khi nghe lời cận thần can ngăn, thực ra là do nản chí,
Pyrus nổi cơn giận dữ với người đẹp và anh dừng bước lại . . . Nhưng rồi không
thể quên được nàng, anh tiến tới dứt khoát hơn. Cuộc sống của một đế vương trẻ
tràn ngập trong khổ đau dằn vặt với tâm trạng bất an này mới là nội dung chính
của vở kịch.
Cái chết của Pyrus mang tính tất yếu, khi hết khổ đau nhân vật
này không còn lí do để tồn tại. Nó củng cố nhận xét của ai đó về con người thượng
lưu Pháp thế kỉ XVII:"Cảm giác, ngay cả cảm giác khổ đau, là cuộc sống duy
nhất đáng mong ước" .
Ecmion là nhân vật sáng tạo của Racine từ nguyên mẫu của
truyền thuyết Hi Lạp và kịch cổ của Euripide. Nàng là người có địa vị cao, rất
dễ hợm hĩnh, kênh kiệu, tự tin. Nhưng khi thấy mình chông chênh trong hạnh
phúc mong manh trước vị hôn phu dễ thay lòng đổi dạ thì Ecmion chao đảo từ cực
này sang cực khác, hoang mang bối rối khủng khiếp , mất hết tự chủ. Nóng vội,
nàng đã làm trái với tâm hồn mình và gây tai hoạ không thể cứu vãn. Nàng cũng
chỉ là một nạn nhân của bi kịch.
Oreste là một tính cách ít thành công hơn, chưa đủ
gọi là nhân vật bi kịch. Hắn chỉ là con người thiếu tự chủ nhất thời bị cơn
thèm khát tình yêu đẩy vào kết cục bi đát nhục nhã. Anh ta chỉ là một nạn nhân
đau khổ của định mệnh(ngụ ý: không hiểu nổi việc mình làm, ngu dốt. Khác với
Pyrus hiểu rất rõ hậu quả mà vẫn hành động !) .
Vở kịch Andromaque thể hiện rõ nét nhất nghệ thuật
bi kịch Racine. Kịch của ông không quá lạ lùng siêu việt phức tạp ngổn ngang mà
hấp dẫn khán giả bằng sự miêu tả tinh vi đời sống tình cảm của con người thời đại
trong một khuôn khổ hẹp nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét